Phần mềm đọc truyện thiếu nhi cực hay cho android

9:42 AM |
Nếu bạn có con nhỏ mà mỗi lần muốn kể chuyện thiếu nhi cho con nghe hãy sử dụng đến chiếc điện thoại thông minh của mình. Phần mềm tích hợp nhiều chuyện thiếu nhi hay phù hợp với các em nhỏ và được cập nhật liên tục và giọng cực hay giúp các bé có thể chìm vào giấc ngủ một cách ngon lành .

Phần mềm đọc truyện thiếu nh

Hãy click vào đây để tải về: Truyen thieu nhi .jar
                                          Truyen thieu nhi.jad


Read more…

Nghệ thuật kể chuyện cho Thiếu Nhi

9:28 AM |

Nghệ thuật kể chuyện cho Thiếu Nhi . Nếu bạn biết áp đụng những cách này thì bạn sẽ trở thành người kể chuyện tuyệt vời



Các em nhỏ rất thích nghe chuyện cổ tích, truyện thiếu nhi. Thế giới của các em đầy những câu chuyện cổ tích thần thoại, những câu chuyện hay đẹp. Đó là một thực tế không thể chối cãi. Phải chăng những câu chuyện từ thời thơ ấu vẫn luôn đậm nét trong tâm hồn chúng ta.
Câu chuyện là cách hay nhất để dẫn các em tới những hành động tốt đẹp. Nhiều khi chúng ta thao thao bất tuyệt để giảng một bài Giáo Lý đã dọn sẵn nhưng các em tiếp thu chưa tốt. Nhưng nếu biết vận dụng một câu chuyện kể phù hợp thì sẽ gây được hứng thú nghe và sẵn sàng làm theo những gì chúng ta đề nghị
Bài giáo lý được trình bày theo lối quy nạp. Vì thế trong bài giảng này thường lấy một câu chuyện cụ thể để làm khởi điểm, rồi dựa vào câu chuyện để trình bày đề tài giáo lý.
I- TÁC DỤNG CỦA KỂ CHUYỆN
- Nhằm mục đích giáo dục đức tin, câu chuyện dùng làm phương thế dẫn tới Tin Mừng và truyền đạt Tin Mừng.
- Giúp cho các em tiếp thu kiến thức cần truyền đạt một cách dễ dàng,
- Kích thích sự hứng thú học tập của trẻ vì kể chuyện là món ăn tinh thần không thể thiếu của các em, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
- Không khí buổi học sinh động, vui tươi, thu hút sự chú ý của các em
- Bài học được rút ra từ câu chuyện sẽ làm cho trẻ ghi nhớ lâu hơn một bài học thông thường
1. Những chuyện thường nhật hoặc thời sự
Những việc xảy ra hằng ngày, những biến cố có tính thời sự cũng có thể đưa vào làm khởi điểm để suy nghĩ về một đề tài giáo lý. Tuy nhiên, việc lựa chọn những chuyện này khó hơn. Cần hội đủ hai điều kiện:
·         Thích hợp, hoặc ít nhất cũng không mâu thuẫn với chủ đề tôn giáo.
·         Có thể từ câu chuyện chuyển sang đề tài giáo lý một cách dễ dàng, không gượng ép giả tạo.
II. CÁCH THỰC HIỆN
1. Nắm vững chủ đích
Kể chuyện trong giờ giáo lý không nhằm mục đích mua vui hay giải trí. Câu chuyện được dùng làm phương thế dẫn tới việc truyền đạt nội dung. Vì thế phải lựa chọn những câu chuyện phù hợp để qua đó lồng vào bài học, những kiến thức cần truyền đạt,
2. Nội dung chuyện kể
Cũng vì nhằm mục đích mới xác định ở trên, nên phải nắm vững nội dung câu chuyện, tránh: đầu Ngô mình Sở, tránh những nội dung thần thoại, mê tín dị đoan mà cần phải quy về quyền năng Chúa.
Nội dung câu chuyện phải được trình bày một cách sống động, ngắn gọn, cụ thể. Cần loại bỏ những chi tiết dư thừa, lan man không trực tiếp liên quan đến vấn đề được trình bày làm trẻ bị phân tâm, không ghi nhớ hết, chỉ giữ những nét có thể làm nổi bật những điểm mình muốn đem áp dụng vào bài giáo lý.
Nội dung chuyện cần làm sáng tỏ điều hay, điều dở để các em so sánh, nhận định và có thể tự rút ra bài học (câu chuyện có kết luận mở)
   3. Cách kể chuyện
- Người kể nắm vững câu chuyện, tránh tình trạng đọc truyện.
- Cần hóa thân vào nhân vật trong chuyện giúp các em dễ bị cuốn hút vào câu chuyện.
- Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ.
- Khả năng biểu cảm trong diễn đạt: chất giọng rõ ràng, dễ nghe. Giọng nói thay đổi cao độ, cường độ, trường độ cho phù hợp nhằm làm câu chuyện thêm lôi cuốn. Tuy nhiên cần tránh tình trạng kịch tính. Ngoài ra, các yếu tố phi ngôn ngữ như nét mặt, điện bộ, cử chỉ cũng góp phần lớn cho thành công của câu chuyện.
- Đặt mình vào trình độ người nghe, hiểu được cảm nghĩ của trẻ, theo dõi sát sự chú tâm của trẻ:
· Chúng im lặng theo dõi : câu chuyện cuốn hút trẻ chăm chú nghe.
· Chúng lơ láo, ngáp vặt, nghịch ngầm: chuyện làm chúng chán nản. Cần phải thay đổi bầu khí, thu ngắn chuyện, nêu câu hỏi đàm thoại, băng reo… để lấy lại bầu khí
   -   Sau khi kể xong phải đặt lại câu hỏi với các em , rút ra ý chính , điều cần học tập, hoặc để chuyển tiếp vào bài Giáo Lý
Kể chuyện là một phương pháp hữu hiệu để giúp trẻ tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú, nhiều hiệu quả. Điều quan trọng là chúng ta cần nắm vững tâm lý trẻ, chuẩn bị tốt nội dung và nhập tâm làm cho câu chuyện sống động, hào hứng , Có như thế trẻ sẽ tiếp thu tốt và ghi nhớ lâu dài.
Ngoài những thứ nêu trên người kể phải  thuộc nhiều truyện và phải pha thật nhiều trò và hành động làm các em có trí tưởng tượng phong phú.

Mỗi ngày hãy tích lũy cho mình những bài học và câu chuyện bổ ích dành tặng cho các em.

 
Read more…

Truyện thiếu nhi -Bà mụ thứ mười bốn của Ngọc Châu

9:21 AM |

 Truyện thiếu nhi -Bà mụ  thứ mười bốn của Ngọc Châu. Một trong những truyện thiếu nhi hay và đặc sắc nhất.

Cu Tương khoái chí lắm khi khoe với các bạn trong lớp vỡ lòng rằng nó có những mười bốn Bà Mụ, mẹ nó bảo thế. Cô Ven-ôsin đọc cho nó nghe tờ công đức mới trên ban thờ, ghi rằng bố mẹ nó đã cúng tới một nửa quả chuông ở chùa .. chùa.. gì Mụ ấy, ai cũng phải lác mắt khi đọc số tiền tới chín con số trong tờ biên nhận công đức của nhà nó. Mẹ cu Tương hể hả nói rằng nhờ thế mới xin được chư Tiên chư Phật ban thêm cho thằng Tương một Bà Mụ nữa, để chăm sóc và độ trì cho thằng bé ở mọi lúc mọi nơi, bù cho bố nó là ông tướng thật nhưng cứ đi biền biệt, có lúc nào để ý đến con ...
 
_____



                Truyện thiếu nhi -Bà mụ  thứ mười bốn của Ngọc ChâuNhi đồng 1 Ngọc Châu

BÀ MỤ THỨ MƯỜI BỐN

    Cu Tương khoái chí lắm khi khoe với các bạn trong lớp vỡ lòng rằng nó có  những mười bốn Bà Mụ, mẹ nó bảo thế. Cô Ven-ôsin đọc cho nó nghe tờ công đức mới trên ban thờ, ghi rằng bố mẹ nó đã cúng tới một nửa quả chuông ở chùa .. chùa..  gì Mụ ấy, ai cũng phải lác mắt khi đọc số tiền tới chín con số trong tờ biên nhận công đức của nhà nó. Mẹ cu Tương hể hả nói rằng nhờ thế mới xin được chư Tiên chư Phật ban thêm cho thằng Tương một Bà Mụ nữa, để chăm sóc và độ trì cho thằng bé ở mọi lúc mọi nơi, bù cho bố nó là ông tướng thật nhưng cứ đi biền biệt, có lúc nào để ý đến con được đâu.
    Cái Mi ngồi cạnh nó bảo:
    - Xì, tưởng gì. Tớ á, tớ có mười.. mười sáu Bà Mụ cơ!
    Thằng Tin thì đếm đếm các đốt ngón tay rồi tuyên bố:
    - Tao có.. có hai mươi bà cơ. Mới đầu anh cu này định nói có một trăm Bà Mụ, nhưng thấy số ấy hơi nhiều, bọn chúng sẽ bảo là nói phét nên cu cậu giảm xuống con số hai mươi.
    Tương ta tức ơi là tức. Nó có mười bốn Bà Mụ rõ ràng, cứ nghĩ là nhiều hơn bọn ở lớp, vì mẹ nó bảo mọi đứa trẻ đều có mười hai Bà Mụ và chung nhau một bà Chúa Mụ nữa, tính cả bà ấy vào mới là mười ba. Biết thế từ đầu nó khoe ngay là có năm mươi bà, có phải hơn chúng nó không?!
    Tức lắm, tức cha chả là tức! Khi một thằng bé tức, thường là mắt với tai nó đỏ lên, vai với gáy thì râm ran như bị rôm đốt. Nhưng đã chót nói rồi, bây giờ có bảo rằng mình có tới một trăm bốn mươi Bà Mụ, bọn chúng nó cũng chẳng chịu thua đâu. Vậy nên tối hôm ấy, khi đi ngủ nó khấn thầm trong mồm, rằng nó muốn các bà làm thế nào để các bạn trong lớp biết rằng nó đúng là có mười bốn Bà Mụ, và có hơn một Bà Mụ thì phải có điểm gì hơn những đứa khác một cách rõ ràng. Cu Tương cứ lẩm nhẩm trong mồm, khấn rất lâu vì vẫn thấy mẹ nó bảo "có khấn có thiêng, có kiêng có lành", cho đến khi Bà Mụ Ngủ phải lướt nhẹ bàn tay qua mi mắt, để cho thằng bé ngủ thiếp đi.
    Các Bà Mụ luôn luôn quan tâm tới đứa trẻ mà các bà đã nhận việc chăm sóc, chúng muốn điều gì các bà cũng biết ngay, vì các bà lúc nào chẳng ở sát bên cạnh đứa bé của mình. Vậy nên ngay lập tức cu Tương thấy mình đang đi chơi với cái Mi, thằng Tin, thêm cả thằng Hên lớp bên cạnh, ở một công viên rộng mênh mông có đủ ao hồ, sông suối, vườn chim, vườn thú. Công viên ấy có núi xanh để trượt cỏ nhá, lại có cái hang Âm-Ti tối thui, đứa nào bạo gan lắm mới dám bước vào, nhưng đã bước vào thì vừa run vừa sướng với bao nhiêu thứ kì lạ, chưa từng thấy có ở bên ngoài.
    Bốn đứa trẻ con nhưng cả thảy có tới bốn mươi chín Bà Mụ đi cùng. Bà Chúa Mụ chẳng bao giờ đi với đứa trẻ nào đâu, bà ấy chỉ ngồi ở một nơi theo dõi và nhắc nhở các Bà Mụ khác, vì bà ấy chỉ huy tất cả các Bà Mụ cơ mà. Đông như vậy nhưng nhóm nào ra nhóm đó, chẳng hề va vào nhau vì các bà có thể di chuyển hoặc bay rất nhanh theo các huớng, còn độn thổ cả xuống dưới đất nữa cơ. Các bà xúm quanh đứa trẻ mình nhận bảo hộ, bốn đứa lại đứng gần nhau nên chúng không nhận ra bà nào là của đứa nào.
    Tuy nhiên Cu Tương nhận ra bà Mụ Thứ Mười Bốn của mình khá dễ dàng, vì rằng các Bà khác đều mặc áo xanh trong khi bà này mặc áo vàng, mũ vàng, hài vàng. Mọi thứ đều mạ vàng, là bộ đồ lễ mẹ nó mới sắm thêm hôm qua, hóa riêng cho bà ấy.
    Cu Tương khoái lắm. Thế là đúng rồi! Rõ ràng mình nó có mười ba Bà Mụ, hơn chúng nó một bà, còn bà Chúa Mụ là của chung không nói làm gì. Tuy vậy cả ba đứa kia đều đang hớn hở vì được đi chơi, mải mê với nhiều trò lạ nên tụi chúng chẳng để ý đến chuyện các Bà Mụ mặc quần áo màu gì và bà nào là của nhà đứa nào.
    Sau khi ra khỏi hang Âm-Ti, bọn trẻ chạy tới chỗ chiếc cầu thăng bằng. Không như ba đứa kia, cu Tương đặc biệt để ý đến các Bà Mụ, nó thấy các bà ấy luôn luôn giúp đỡ hoặc uốn nắn cho đứa trẻ của mình nhiều thứ. Đứa nào làm cái gì vụng về (chúng làm mà không để ý đâu), lập tức có một Bà ngay cạnh đấy làm lại động tác ấy một cách khéo léo, thế là đứa trẻ của bà tự nhiên làm lần thứ hai khéo gần như vậy, mặc dù Bà Mụ chẳng cần phải giảng giải hoặc nói to "các em nhìn xem rồi bắt chước mà làm nhá" như các cô giáo dạy ở lớp  nó.
    Lúc còn ở trong hang Âm-Ti, cái Mi cố vươn người ra để vớt bông hoa màu đỏ rất đẹp nổi lập lờ trên mặt nuớc, đến mức tí nữa thì lộn cổ khỏi con thuyền. Một Bà Mụ bay dập dờn cạnh nó liền cúi xuống, lấy tay vớt vớt mặt nuớc khiến nuớc chảy về  phía mình kéo cả bông hoa dạt đi theo. Bà ấy chỉ vớt có hai lần- cu Tương nhìn rõ lắm, còn chính cái Mi lại chẳng để ý đến động tác của bà- thế mà tự dưng nó cũng vớt nuớc theo kiểu của Bà Mụ và lấy được bông hoa, con bé thích lắm cứ đưa bông hoa lên vẫy vẫy những người ngồi trên chiếc thuyền khác đi ngang.
    Thế mới gọi là các Bà Mụ chứ! Thật là cực kì. Mẹ nó bảo chính các bà ấy đã phân chia nhau nặn từng bộ phận như cái chân, cái tay, tóc tai mặt mũi, rồi ghép thành đứa trẻ con trong bào thai, khi chúng ra đời mỗi bà lại nhận một nhiệm vụ dạy dỗ và săn sóc đến hết tuổi ấu thơ của chúng. Bà thì chuyên dạy trẻ con cười, bà dạy cách ăn, ngủ, lẫm chẫm đi lại.., chẳng thế mà mỗi đứa trẻ phải có đến mười hai Bà Mụ.
    Mải há mồm nhìn các Bà Mụ của bọn cái Mi, thằng Hên nên cu Tương chẳng để ý đến mười ba Bà Mụ Của Mình, lúc này cu cậu chợt thấy cạnh mình chỉ có Bà Mụ Thứ M­ười Bốn, là bà mặc quần áo vàng, các bà khác không hiểu sao đều bay bay ở tít trên cao. Không biết từ lúc đi chơi đến giờ các Bà Mụ của nó đã làm mẫu và uốn nắn những gì cho nó, nhưng cu cậu chợt nhận thấy rằng hình như nó chẳng phải làm gì cả, đúng thế thật, từ lâu lâu rồi cơ.
    Cu Tương vừa định leo mấy bậc lên chiếc cầu thăng bằng thì chân nó đã nhấc từng buớc nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng vì Bà Mụ Thứ M­ười Bốn cúi người thổi cho nó bay lên. Nó cắn và nhai miếng bánh mì kẹp chả thì miếng bánh tự nhiên tan ra ở trong mồm, không cần nuốt đã êm ái trôi xuống dạ dày. Sướng thật đấy, nhất là khi đi cầu thăng bằng, cái Mi không nói làm gì nhưng ngay thằng Hên cũng cứ ngã dúi dụi, có lần rơi khỏi cầu bệt đít xuống đất. Bà Mụ của nó  phải lặng lẽ làm mẫu mấy lần cu cậu mới đi qua cầu được một lần, mà còn loạng choạng lắm. Thế nhưng cu Tương vừa đặt chân lên tấm ván thì Bà Mụ áo vàng đã nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng đỡ hai bên vai cho nó thong dong đi một lèo qua cầu  sang bên kia, khiến ba đứa trẻ còn lại ngẩn mặt ra mà thán phục. Sướng còn ở chỗ hình như ba đứa kia không nhìn thấy Bà Mụ Thứ M­ười Bốn đỡ vai cho nó đi như thế nào!
    Từ ngày mẹ cu Tương xin thêm được Bà Mụ Thứ M­ười Bốn, thằng bé làm cái gì cũng khéo léo, giỏi giang vì thực ra nó chẳng phải làm gì cả. Bà Mụ áo vàng đã tranh hết việc của các bà áo xanh, không hướng dẫn và làm mẫu mà luôn sốt sắng làm thay cho nó mọi thứ.
    Đúng hôm ông tướng, bố của cu Tương được nghỉ phép về thăm nhà thì các Bà Mụ báo mộng cho mẹ nó rằng họ sẽ nghỉ ít ngày để về Trời dự Hội nghị Thiên cung. Mẹ cu Tương không hề nài nỉ xin một vài bà ở lại trợ giúp vì thấy con mình làm cái gì cũng đã giỏi giang, khéo léo.
    Bố nó bảo:
    - Mẹ nó ạ, từ giờ gọi thằng cu nhà mình theo đúng tên đi. Cả nhà cứ gọi nó là cu Thành Tương cho dân dã và dễ nuôi, chứ tên khai sinh của nó là Công Thành Tướng cơ mà, tôi và bà đều mong muốn sau này nó sẽ không tiếc công sức rèn luyện, phấn đấu để trở thành một vị tướng như bố nó. Có làm được như thế không hở cu con?- Bố quay sang hỏi cu Tương như vậy.
    - Làm được bố ạ. Con thích làm tướng như bố lắm!- Thằng bé hớn hở. Nó chạy vụt vào nhà đem cây kiếm gỗ ra múa để khoe tài với bố. Mọi ngày cu Tương múa khéo lắm, nhưng hôm nay không hiểu sao tay chân cứ lóng nga lóng ngóng, tua ở chuôi kiếm mắc vào thắt lưng trong vạt áo gỡ mãi mới ra, tung chiêu "sát thủ" đâm chéo lên thì mũi kiếm lại chọc vào khe cổ tay áo bên trái, tí nữa sứt  da ở cổ tay. Lạ thật, mà chẳng phải riêng chuyện múa kiếm đâu: lúc ăn, cơm vãi tung tóe ra ngoài, húp nước súp gà thì bị sặc đến phát ho phát hen, khi cu cậu đi tè không hiểu sao cũng để một dòng.. nước nóng tóe vào ống quần, khiến mẹ nó phải bảo cô Ven-ôsin thay ngay cho cậu con cưng.
    Tướng bố và tuớng con đều không hiểu tại sao lại như vậy, chỉ có bà mẹ  là biết nguyên nhân. Bà vội vàng đến bên ban thờ thắp nhang khấn khứa. Khấn khẽ lắm, chỉ có chư Tiên chư Phật mới nghe thấy lời khấn của mẹ thằng bé xin các Bà Mụ mau trở về. Bà còn xin thêm Bà Mụ Thứ Mười Lăm cho nó, hứa rằng sẽ công đức số tiền lớn để mạ vàng tất cả các bức tượng của ngôi chùa đã cúng một nửa quả chuông.
    Cu Tương sướng thật. Nó sẽ chẳng phải học, phải làm cái gì cả. Rồi thì hai Bà Mụ thứ mười bốn và mười lăm mặc quần áo vàng, đi hài vàng, hưởng mọi thứ ưu đãi của mẹ cu Tương sẽ tranh nhau làm hết mọi việc hộ nó, không kịp để cho mười hai Bà áo xanh hướng dẫn như với những đứa bé khác.
    Không hiểu như vậy rồi thì.., liệu có ngày nào chúng mình được xem cu cậu nhận lon tướng không nhỉ?
                                                                                                                                                     Ngọc Châu
Read more…

Truyện thiếu nhi - Ngốc Được Kiện

11:16 PM |

Truyện thiếu nhi - Ngốc Được Kiện . Blog tổng hợp nhiều truyện thiếu nhi hay dành cho các em học sinh và các em nhỏ tuổi.

Truyện thiếu nhi - Ngốc Được Kiện
Truyện thiếu nhi - Ngốc Được Kiện


Có một anh chàng nọ quá đỗi thật thà nên mọi người gọi anh là thằng Ngốc. Chàng Ngốc khỏe mạnh, yêu đời và lao động giỏi. Anh chàng nghèo khổ, không cửa không nhà phải đi ở muớn cho một tên trọc phú. Anh làm lụng quần quật suốt ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác. Thấy anh này khỏe mạnh, dễ sai bảo nên sau năm năm nghe anh ta đòi tiền công, hắn dỗ dành anh làm thêm cho hắn năm năm nữa. Lại năm năm nữa trôi qua. Thấy anh đòi tiền công để về, lão trọc phú lại dỗ:

      - Mày ở với tao đã lâu thành ra thân tình trong nhà nên tao không nỡ chia tay ngay với mày. Thôi mày ở với tao thêm năm năm nữa rồi tao đưa tiền công cả mười lăm năm ba nén vàng. Lúc đó thì mày tha hồ giàu có.

      Nghe bùi tai, chàng Ngốc lại dồn hết sức làm việc quần quật cho lão trọc phú thêm năm năm nữa. Lần này hết hạn anh một mực đòi thôi việc. Dỗ mãi cũng không được, lão trọc phú bèn mang vàng ra trả. Chàng Ngốc cầm vàng hí hứng đi, mà đâu có biết lão trọc phú đưa cho chàng toàn vàng giả. Có vàng trong tay chàng Ngốc dự định đi ngao du thiên hạ cho thõa lòng mong ước được biết đó biết đây sau bao nhiêu năm lao động nhọc nhằn. Đi được một hồi anh ghé vào nhà một người thợ bạc. Người thợ bạc hỏi cho biết anh là ai và đi đâu, thì chàng Ngốc kể chuyện mình ra sao, được trả công như thế nào. Nhìn mấy nén vàng anh ta khoe, người thợ bạc nhìn là biết vàng giả, nhưng thấy anh chàng này ngốc nên định bụng lừa anh, hắn bảo:

      - Ở chốn thành đô chỉ có nhà quyền quí mới xài được, chớ dân thường thì khó lắm, tốt hơn anh nên đổi ra bạc dễ tiêu lắm. Sẵn đây tôi có mấy nén bạc anh thích thì tôi đổi hộ cho, cứ một vàng ăn hai bạc.

      Nghe có lý chàng Ngốc khẩn khoản xin đổi hộ. Không ngờ lão thợ bạc lại đưa cho sáu thỏi chì giả bạc. Chàng Ngốc cầm lấy cảm ơn rối rít và lại lên đường.

      Đến một nơi khác trên đường tới kinh đô anh chàng gặp một thợ giày. Mãi nói chuyện vui miệng với người đó anh kể là mình có sáu thỏi bạc. Hắn biết là bạc giả song đang cần chì nên gả đổi lấy một nghìn tờ giấy, hắn chỉ vào thứ lụa giả của mình và bảo:

      - Đây là thứ "lụa đinh kiến" quý lắm, anh nên đem tới kinh đô bán, cứ mỗi vuông lấy một quan tiền thì tha hồ mà tiêu.

      Nghe bìu tai chàng Ngốc đồng ý ngay. Khi ngang qua trường học thấy một người học trò đang chơi chong chóng bằng giấy xanh mà cả đời anh chưa thấy bao giờ nên thích lắm bèn tới xem và hỏi:

      - Cái gì thế này?

      Cậu học trò láu lỉnh nói đùa:

      - Đây là cái "thiên địa vận" dùng nó có thể biết được việc trời đất, mọi việc thế gian đều tỏ tường, nó quý lắm vì điều gì cũng đoán được trước.

      Chàng Ngốc nghe vậy bèn gạ đổi lấy một nghìn vuông "lụa đinh kiến" của mình. Cậu học trò tất nhiên là đồng ý luôn.

      Với thiên địa vận trong tay, chàng Ngốc nghĩ đã đến lúc được mọi người sẽ kính phục hết nhẽ. Qua một cánh đồng rộng chàng Ngốc thấy đám trẻ chăn trâu đang chơi một con niềng niễng lớn có đôi cánh xanh đỏ rất đẹp. Tò mò anh lại xem. Bọn chúng không muốn cho anh xem nên chúng nói dóc cho anh hốt hoảng.

      - Anh tránh ra đi, đây là "ngọc lưu ly" quý hiếm lắm. Đeo nó vào thì hè mát, đông ấm, đến đức vua cũng chưa chắc đã có.

      Chàng Ngốc nghe vậy nghĩ là không ngờ trên đời lại có của quý đến thế, quý tới mức đến đức vua cũng chưa có. Anh chàng bèn đem "thiên địa vận" của mình ra gạ đổi, lũ chăn trâu thấy chong chóng đẹp nên bằng lòng đổi. Chúng bỏ con niềng niễng vào túi còn thắt miệng lại dặn chàng Ngốc:

      - Lúc nào về đến nhà thì mở xem. Không thì ngọc bay mất đấy.

      Được viên ngọc quý rồi chàng Ngốc định bụng vào triều dâng vua để được ngắm cảnh vương triều. Nhưng tới cửa ngọ môn thì chàng ta bị lính gác chận lại. Chàng Ngốc than vãn:

      - Tôi đi ở thuê, làm mướn những mười lăm năm trời vất vả mới được ba nén vàng, rồi đổi lấy sáu thỏi bạc, đến một ngàn vuông "lụa đinh kiến", đến cái "thiên địa vận", cuối cùng "viên ngọc lưu ly", tôi định dâng vua viên ngọc quý đó, vậy cớ sao không cho tôi vào.

      Lúc đó có một gian thần đi ngang qua nghe chàng Ngốc nói có hột ngọc lưu ly hắn liền nổi lòng tham bèn nhận lời dẫn chàng Ngốc vào bái kiến, hắn bảo anh cứ tạm thời chờ ở cửa. Cầm được cái túi, tên quan thấy có cái gì đó tròn tròn ở trong thì khấp khởi mừng lắm. Hắn bước qua ngưỡng cửa hoàng cung bèn giở ra xem thực hư như thế nào để tìm cách chiếm đoạt. Ai dè mở túi ra nó bay vụt đi mất.

      Chàng Ngốc thấy vậy túm lấy tên quan bắt đền. Anh giơ tay đánh trống ở cửa hoàng cung vang lên. Bọn lính kéo anh ra cửa đánh. Chàng khóc ầm ĩ. Thấy động, vua sai người ra dẫn chàng Ngốc vào hỏi sự tình. Ngốc tâu:

      - Muôn tâu bệ hạ, tôi đi ở mười lăm năm được ba nén vàng, rồi sáu nén bạc, rồi một ngàn vuông "lụa đinh kiến", rồi cái "thiên địa vận" mới được hòn "ngọc lưu ly" để đem vào dâng bệ hạ, thế mà cái ông quan kia mở túi làm viên ngọc bay mất. Xin ngài thương rủ lòng thương xử cho con với.

      Tên gian thần thì ra sức chối cãi, song nhà vua vẫn phán:

      - Tên dân này đem hòn ngọc lạ dâng ta. Đó là ý tốt. Để mua viên ngọc đó hắn tốn bao nhiêu công sức và tiền của, vậy kẻ làm mất viên ngọc không chỉ có tội với ta, mà còn phải bồi thường cho người có ngọc đủ số chi phí để có viên ngọc quý đó.

      Đoạn vua quay sang nói với chàng Ngốc:

      - Trẫm ban cho ngươi một chức quan nhỏ để thưởng công cho lòng trung hiếu với trẫm.

      Chàng Ngốc sướng đến run người, chàng nhận đủ số tiền bồi thường và vui vẽ đi nhận chức quan mà vua đã ban cho chàng.

Các bạn đang đọc truyện thiếu nhi  Ngốc Được Kiện
Read more…

Truyện thiếu nhi - Ba Phần Gia Tài

11:07 PM |

Truyện thiếu nhi - Ba Phần Gia Tài. Bạn muốn tìm truyện thiếu nhi hay .Hãy đọc tại atruyencuoi.blogspot.com.Nơi cập nhật nhiều truyện thiếu nhi hay nhất.

 
Truyện thiếu nhi - Ba Phần Gia Tài
Truyện thiếu nhi - Ba Phần Gia Tài

Ngày xưa ở Trung Quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe tiếng, liền triệu Biền vào cung, ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, hắn đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo hắn có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch.
Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban rất nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, hắn nói: Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần rút trong chùm chìa khóa, nhằm chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy.
 Hoàng đế nghe nói, hơi ngạc nhiên nhưng vốn trọng tài Biền, lại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để cho hắn làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút lông, hắn mang đến một hòn đá, lần lượt đem ra chọc mạch từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lần thấy tòe ngòi, hắn lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ như thế cho đến lúc trong kho sắp vơi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông còn nguyên vẹn, Biền mừng quá, reo lên:
 Ta tìm được ngòi bút thần rồi! Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời xông vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con vật ấy đều họat động không khác gì những con vật có thật. Rồi đó Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều.
Diều tự nhiên bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa ông vút lên trên không. Sau đó Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông, sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu hắn tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh Quảng Ngãi, một huyện đất phát đế vương. Huyện đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình thì đã già mất rồi, nếu được làm vua cũng không hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho con rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ của nó tất được bồi phần trọng đãi, mà dòng dõi của con gái mình cũng được hưởng kết quả tốt đẹp đó. Nhưng muốn thực hiện cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, hắn trở về Trung Quốc bảo người rể đào lấy hài cốt của cha nó đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này hắn chỉ bàn kín với một người học trò của mình mà thôi.
 Nhưng người học trò mà hắn tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần y hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam. Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ một bên mép. Xong việc đó, Cao Biền bảo người rể chọn năm giống lúa mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt.
Mỗi huyệt hắn sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quân gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung Quốc. Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên người con gái của hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba người con trai mặt mũi kỳ dị.
 Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: Một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh đều cầm dao sáng quắc. Cả ba đức nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem quân để thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bảo vợ: - Mày đẻ ra ma quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế. Rồi đó hắn chém tất cả. Trong lúc bối rối, người nhà của hắn vì lầm nên đốt tất cả nén hương còn lại. Tự dưng đất chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc mỗi lớn.
Thế rồi nắp mộ tung ra, bao nhiêu quân gia dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên người nào người nấy sức còn yếu, đứng chưa vững, ai nấy đều bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng chết hết. Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Và sau khi thấy rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể. Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn thì đạp đổ".
Nghĩ thế, hắn thường cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả các long mạch. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chám đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi vì có máu tự cổ con rồng chảy ra. Đến Nghệ An, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu Rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Vì thế đỉnh núi ấy từ đó trở đi không một cây cối gì mọc được. Ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Việt Nam đều phát tích ở Thanh Hóa. Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng Đại Mỗ tỉnh hà Đông), Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế vương.
Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đọan thuận tay nén luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng đó. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không một ai dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn; một đầu buộc vào khúc gỗ còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên họ thấy những xóm làng bên cạnh đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Ngày nay có cái đặc biệt là nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong, người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới. Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú tinh tường đem dâng lên vua đường. Đại ý nói tất cả các mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà Nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại La để chặn long mạch. Lễ trấn áp này hắn làm rất linh đình và công phu. Trên hòn núi ở xa xa về phí bắc thành Đại La, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại La, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám vạn quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cái tháp, đi từ Đại La tiến đến núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng "thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại nhất tề kéo về Đại La. Cũng vì việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát Vạn. Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị nhân dân ở nước Nam rất căm phẫn. Họ lập tâm chờ dịp giết chết cho bỏ ghét. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh Bình. Ở đây người ta chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi, Biền bị trọng thương, sau đó phải dưa về Trung Quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi cánh diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh Bình. Cao Bình về nước được ít lâu bị thủ hạ giết chết. Người ta theo lời dặn của hắn đem hài cốt chôn ở một cái gò cát ở mé biển miền Nam cứ như bây giờ thuộc tỉnh Phú Yên. Ở đó mặc dầu sóng gió thổi mạnh thế nào đi nữa, cát ở mả cũng không bay đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả Cao Biền. Ngày nay chúng ta còn có câu Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non là ý nóng nẩy vội vàng sẽ thiếu chu đáo, mà như thế thì sẽ thất bại.
Read more…

Truyện thiếu nhi - Cao Biền Dậy Non

11:01 PM |

 Truyện thiếu nhi - Cao Biền Dậy Non. Blog tổng hợp truyện thiếu nhi hay dành cho mọi lứa tuổi.


Truyện thiếu nhi - Cao Biền Dậy Non
   Ngày xưa ở Trung Quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe tiếng, liền triệu Biền vào cung, ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, hắn đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo hắn có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch. Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban rất nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả.
     Vì thế Biền không nhận vàng, hắn nói: Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần rút trong chùm chìa khóa, nhằm chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy. Hoàng đế nghe nói, hơi ngạc nhiên nhưng vốn trọng tài Biền, lại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để cho hắn làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút lông, hắn mang đến một hòn đá, lần lượt đem ra chọc mạch từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lần thấy tòe ngòi, hắn lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ như thế cho đến lúc trong kho sắp vơi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông còn nguyên vẹn, Biền mừng quá, reo lên: Ta tìm được ngòi bút thần rồi! Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời xông vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con vật ấy đều họat động không khác gì những con vật có thật. Rồi đó Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều tự nhiên bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa ông vút lên trên không. Sau đó Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông, sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu hắn tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh Quảng Ngãi, một huyện đất phát đế vương. Huyện đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ.
     Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình thì đã già mất rồi, nếu được làm vua cũng không hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho con rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ của nó tất được bồi phần trọng đãi, mà dòng dõi của con gái mình cũng được hưởng kết quả tốt đẹp đó. Nhưng muốn thực hiện cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, hắn trở về Trung Quốc bảo người rể đào lấy hài cốt của cha nó đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này hắn chỉ bàn kín với một người học trò của mình mà thôi. Nhưng người học trò mà hắn tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần y hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam. Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hãy lên.
 Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ một bên mép. Xong việc đó, Cao Biền bảo người rể chọn năm giống lúa mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt hắn sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quân gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung Quốc. Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên người con gái của hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba người con trai mặt mũi kỳ dị. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: Một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh đều cầm dao sáng quắc. Cả ba đức nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem quân để thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bảo vợ: - Mày đẻ ra ma quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế. Rồi đó hắn chém tất cả.
     Trong lúc bối rối, người nhà của hắn vì lầm nên đốt tất cả nén hương còn lại. Tự dưng đất chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc mỗi lớn. Thế rồi nắp mộ tung ra, bao nhiêu quân gia dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên người nào người nấy sức còn yếu, đứng chưa vững, ai nấy đều bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng chết hết. Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Và sau khi thấy rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể. Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn thì đạp đổ". Nghĩ thế, hắn thường cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả các long mạch. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chám đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi vì có máu tự cổ con rồng chảy ra. Đến Nghệ An, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu Rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Vì thế đỉnh núi ấy từ đó trở đi không một cây cối gì mọc được. Ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Việt Nam đều phát tích ở Thanh Hóa. Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng Đại Mỗ tỉnh hà Đông), Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đọan thuận tay nén luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng đó. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không một ai dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên.
       Họ tết một chiếc thừng lớn; một đầu buộc vào khúc gỗ còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên họ thấy những xóm làng bên cạnh đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Ngày nay có cái đặc biệt là nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong, người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới. Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú tinh tường đem dâng lên vua đường. Đại ý nói tất cả các mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà Nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại La để chặn long mạch. Lễ trấn áp này hắn làm rất linh đình và công phu. Trên hòn núi ở xa xa về phí bắc thành Đại La, hắn cho dựng một cái đàn tràng.
      Trong thành Đại La, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám vạn quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cái tháp, đi từ Đại La tiến đến núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng "thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại nhất tề kéo về Đại La. Cũng vì việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát Vạn. Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị nhân dân ở nước Nam rất căm phẫn. Họ lập tâm chờ dịp giết chết cho bỏ ghét. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh Bình. Ở đây người ta chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi, Biền bị trọng thương, sau đó phải dưa về Trung Quốc.
      Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi cánh diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh Bình. Cao Bình về nước được ít lâu bị thủ hạ giết chết. Người ta theo lời dặn của hắn đem hài cốt chôn ở một cái gò cát ở mé biển miền Nam cứ như bây giờ thuộc tỉnh Phú Yên. Ở đó mặc dầu sóng gió thổi mạnh thế nào đi nữa, cát ở mả cũng không bay đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả Cao Biền. Ngày nay chúng ta còn có câu Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non là ý nóng nẩy vội vàng sẽ thiếu chu đáo, mà như thế thì sẽ thất bại.

Các bạn đang đọc truyện thiếu nhi  Cao Biền Dậy Non
Read more…

Truyện thiếu nhi Ba Chàng Rể

10:54 PM |

Truyện thiếu nhi Ba Chàng Rể. Mời quý vị và các bạn đón đọc tuyển tập truyện thiếu nhi hay được cập thường xuyên tại blog atruyencuoi.blogspot.com


Hai vợ chồng nhà nọ khá giàu có cũng chỉ sinh được một cô con gái. Cô này có nhan sắc. Có ba chàng trai ngấp nghé làm rể: Một tú tài, một khóa sinh và một nông dân. Chẳng may phú ông qua đời, bà vợ bảo: "Ai làm bài văn tế ông nghe mà cảm động thảm thiết sẽ gả con gái cho".
 Tưởng văn chương là nghề múa tay trong bị, chàng tú tài làm một bài văn chữ Hán đối nhau chan chát và đầy điển tích, nhưng mới bắt đầu đọc chữ "duy" đã bị anh chàng nông dân đứng lên cãi: "Duy là giữ lại. Bố chết được chôn cất là hay, tại sao lại bảo giữ lại". Không ngờ bị một anh vô học phá ngang, chàng tú tài bèn bỏ ra về. Đến chàng thứ hai nhờ người gàbài văn tế mở đầu cũng có chữ "duy". Thấy đọc "duy" bị bắt bẻ, anh bèn đọc "di" nhưng lại bị anh nông dân bác: "di" là dời, bố chết chưa được mồ yên mả ấm lại bảo dời đi đâu?". Thẹn quá, anh chàng cũng bỏ luôn. Đến lượt anh nông dân, chẳng tài văn chương giấy má gì cả, đến trước quan tài, quỳ xuống vừa khóc vừa khấn nôm:

Truyện thiếu nhi Ba Chàng Rể
Ô hô! Ô hô! Ô hô!
Nhớ ông xưa: Mình tròn trùng trục, râu dài lê thê Ăn rồi: phát bờ, dọn khe, đan mủng đan sề Ru con ẵm cháu, trồng cà dái dê. Ông bỏ đi mô (đâu)? Ông lại chẳng về. Nói đến đó, bà vợ người quá cố xúc động quá, khóc sướt mướt. Thế là anh chàng nông dân được làm rể.

Các bạn đang đọc truyện thiếu nhi : Ba Chàng Rể
Read more…