1. Hoa mai vàng
2. Hoa vạn thọ
3. Hoa mười giờ
4. Hoa trạng nguyên
5. Hoa mẫu đơn
6.Hoa Quỳnh
7.Hoa Tulip
8. Hoa Hướng Dương
9. Hoa Cỏ May
10. Hoa Diên Vỹ
11. Sự tích Hoa Thuỷ Tiên
12. Sự tích Hoa Phượng Vĩ
13. Sự tích Hoa Mộc Lan
14. Sự tích Hoa Bằng Lăng
15. Sự tích Hoa Tử Đinh Hương
16. Sự tích Hoa Xương Rồng
17. Sự tích Hoa Tuyết
18. Sự tích Hoa Trinh Nữ
19. Sự tích Hoa Cải Vàng
20. Sự tích Hoa Phong Lan
21. Sự tích Hoa Phụng Tiên
22. Sự tích Hoa Nhài
SỰ TÍCH HOA MAI VÀNG
Ngày
xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ
mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba ông
Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nướng thịt
cho mọi người ăn. Một lần, thương ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa
suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nước to dội luôn lên
đầu ba ông. Tro khói bốc lên mù mịt. ông Táo già nhất vụt hiện ra nói:
- Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta. Lửa càng nóng, ta càng vui. Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất.
Từ đấy, cô bé không dội nước lên đầu ba ông Táo nữa. Nhưng ông Táo già
thì thỉnh thoảng lại hiện lên trò chuyện với hai chị em cô bé trong chốc
lát. Một hôm thương ông, cô em hỏi:
- Ông thích lửa thôi à? Ông còn thích gì nữa không?
- Có chứ! Năm sắp hết. ông phải về trời! Cháu bắt cho ông con cá chép
ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất. Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng
được một con cá chép về. Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói:
- Ông Táo ơi! Chúng cháu biếu ông con chép này đây!
Con cá chép vụt biến mất. Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông
hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay
cao mãi lên trời... Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi. Ông
thường chỉ thích đi săn thú dữ. Ông bảo:
- Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết!
Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái. Nhưng cô
em lại rất thích nghề của cha. Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả
côn, quyền và đao kiếm. Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về
sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc. Lên chín, cô đã
hăm hở xin theo cha đi săn thú. Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô
bé đã thưa ngay:
- Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm.
Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con
lợn lòi rất hung dữ... Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người
mình báo. Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ. Vì con quái vật chỉ thích
ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con. Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi
tìm quái vật để giết. Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được. Người
cha bảo:
- Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo.
Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết
chết thật. Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt
đến làm cỗ ăn mừng. Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá
chép và khấn với ông Táo già:
Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi.
Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi:
- Cháu thấy con quái có sợ không?
- Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu.
Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng. Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm
sóc. Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước
nữa. Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu
người nhưng mình trăn. Con quái này có sức khỏe ghê gớm. Nó có thể quấn
chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt. Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ
con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa. Bà con vùng đó liền cử người ra
mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp
bà con. Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi:
- Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không?
Cô gái nhỏ liền đáp:
- Con xin cha mẹ và chị để cho con đi!
Người cha nói:
- Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi. Lần này chính con
phải lo diệt quái đấy. Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội.
- Ông ơi! Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở. Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm.
- Cha ơi! Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi.
Cô gái nhỏ liền thưa:
- Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái. Bà con
đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối. Mẹ và chị cứ yên lòng. Cha và con
diệt xong quái sẽ trở về ngay.
Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho
hai cha con lên đường. Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn
tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ:
- Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì?
Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp:
- Con rất thích màu vàng!
Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi. Ngày lên
đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp. Cô nói với mẹ
và chị:
- Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa...
Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa:
- Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe.
Ông Táo liền hiện ra nói:
- Chúc hai cha con mau trừ được quái. ông sẽ chờ ngày trở về...
Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái
đầu người mình rắn. Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm
quái để diệt. Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt
nổi. Sức của người cha thì cứ yếu dần. Cô bé liền thưa với cha:
- Cha ơi! Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó. Con sẽ đâm một con dao
găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào
thân cây khác. Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu
nó đi. Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm.
Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu:
- Được! Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra.
- Cha cứ yên tâm.
Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái. Nhưng
trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi
dao. Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé. Cô bé vừa chặt được cái
đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người.
Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy
đến đỡ lấy xác con. Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến. Họ đem xác cô
gái về chôn cất rồi lập đền thờ. Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy. Vì
cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu
quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ. Cô xin thần Đất giúp
cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy
bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi:
- Ông ơi! Cháu bị con quái quấn chết. Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu,
chị cháu làm sao sống nổi. Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông
hãy tâu với trời cho cháu sống lại...
Ông Táo đá núi liền hứa:
- Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu...
Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu
lên mấy tiếng rồi bay đi. Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô
gái nhỏ đã không còn nữa. Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa. ông Táo
đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói
ngay:
- Bà cứ yên tâm. Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại.
Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn. Ông Táo đi tối
hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới. ông nói với hai mẹ con:
- Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá
chậm. Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín
ngày.
Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng. Thôi cứ được trông
thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi. Huống gì lại được
thấy đến chín ngày. Bà mẹ liền hỏi:
- Ông ơi! Bao giờ thì cháu sống lại được?
- Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy.
- Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay!
- Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai!
- Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy!
Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi. Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều
chẳng muốn làm gì. Chỉ mong cho trời chóng tối. Chờ mãi rồi trời cũng
tối thật. Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống
lại trở về như thế nào. Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng
có tiếng gọi:
- Mẹ ơi! Chị ơi!
Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về. Trong chiếc
áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ. Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa. Ngày
hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về. Dọc đường thương con,
thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ. Không ngờ
khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị. Ông
dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi. Khi biết cô gái nhỏ đã được
sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài
trên má.
Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày. Trong chín ngày đó,
cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị. Nhưng cả
nhà lại không muốn cô gái làm việc gì. Trong chín ngày, họ sống bù cho
cả một năm sắp phải xa nhau. Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa
kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như
sương khói rồi biến mất. Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng.
Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau,
lại kiên nhẫn chờ đợi... Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái
nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra
đi... Năm nào cũng thế. Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người
ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp
lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn.
Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời. Từ đấy
hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu
Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong. Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô
gái không về nữa. Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã
dựng lên để thờ cô. Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng
gần Tết, hoa lại nở đầy. Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ
ngày trước.
Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến
mất để năm sau lại trở về. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng.
Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng
về cắm trên bàn thờ ông bà. Họ tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà
vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt
cả năm.
Ngày xưa, ở một vùng nọ, có vợ chồng kia hiền lành và chăm chỉ, hai
người lấy nhau đã lâu mà vẫn chưa có con, họ cầu Trời khấn Phật mãi
nhưng vẫn chưa có kết quả.
Hôm ấy, sau khi hai vợ chồng đi lễ chùa về, trời đang nắng bỗng nổi cơn
mưa lớn, sấm chớp nổ đùng đùng làm cả hai xanh mặt, vội vã chạy đến một
cái miếu nhỏ ở bên đường để núp tạm tránh sét, khi chạy gần đến bậc thềm
thì người vợ trợt té, úp bụng xuống đất.
Chồng thấy vậy thì hoảng quá, bồng vợ mang vào bên trong miếu, tưởng
rằng vợ bị sây sát gì, nhưng người vợ bảo là chẳng bị trầy trật ở đâu
cả, chỉ thấy hơi đau nhói một chút ở bụng mà thôi.
Mưa tạnh trời quang, vợ chồng đưa nhau về nhà và một tháng sau thì người
vợ mang thai. Biết rằng Trời Phật đã nhận lời, hai người mừng vô hạn,
bèn lấy một phần ba của cải đem đi bố thí cho người nghèo để đền ơn.
Đến ngày khai hoa nở nhụy, người vợ sinh ra được một thằng bé kháu khỉnh trong niềm sung sướng tột cùng. Người chồng bảo:
- Trời Phật đã thương mà nhận lời chúng ta, thì chúng ta phải cố sống
làm sao cho xứng với tình thương ấy. Tôi dự tính trích thêm một số bạc
nhà mình để sửa lại chùa, mình thấy thế nào?
- Thì mình tính sao em nghe vậy, ân đức này cao bằng trời biển, biết bao nhiêu mà sánh bằng được?
Và thế là ngôi chùa đã được người chồng bỏ tiền ra sửa sang lại khang trang hơn trước.
Đứa bé đầy tháng thì ông mang đến lễ chùa tạ ơn và được đặt tên là Phúc để nhớ đến ân phúc Trời Phật đã ban cho vợ chồng họ.
Thằng Phúc chóng lớn và khôn ngoan thấy rõ, mới lên ba mà đã ăn nói như
người lớn vậy, hai vợ chồng cảm thấy vô cùng sung sướng và hạnh phúc khi
có một người con như thế.
Những tưởng cảnh đầm ấm này sẽ được dài lâu, ngờ đâu sự việc đến không
như họ nghĩ, vì cũng năm đó, người vợ lâm bạo bệnh rồi đột ngột qua đời,
dù người chồng đã tìm đủ thầy, chạy đủ thuốc.
Người chồng chỉ biết ôm con mà khóc, không ngờ tình cảnh lại thay đổi
một cách éo le và nhanh chóng như vậy, mới hôm nào gia đình còn hạnh
phúc tràn trề mà nay đã gãy gánh giữa đường, phải chịu cảnh gà trống
nuôi con.
Sự đời như thế vẫn chưa yên vì cái rủi vẫn đeo bám ông, quá nhớ thương
vợ và khóc lóc nhiều nên mắt ông sưng lên, vài tháng sau thì mờ dần,
không nhìn rõ được.
Năm đó lại xảy ra hạn hán, mất mùa, người ăn xin đông như kiến, ông lại
có tính hay giúp người nên cơ ngơi của ông cứ thế mà vơi dần.
Nạn đói đã bắt đầu xảy ra, người ta giành giật nhau từng củ khoai, bụi sắn mà không còn nghĩ gì đến tình làng nghĩa xóm.
Thấy ông bị mờ mắt, con trai thì còn nhỏ dại, bọn gia nhân của ông ngày
trước đói quá hóa liều, đêm hôm ấy chúng đột nhập vào nhà bắt trói cha
con ông lại rồi tha hồ vơ vét thóc lúa bạc tiền.
Không nhìn thấy gì nên ông chỉ biết tri hô lên cầu cứu, bọn ác nhân liền
phang ông một gậy để ông im miệng vì sợ lộ tung tích, thằng bé Phúc còn
nhỏ quá nên chỉ biết sợ hãi nhắm tịt mắt lại rúc vào người cha để tránh
nạn.
Bọn cướp vét hết tài sản của ông rồi bỏ đi, để lại thằng bé khóc lóc ngơ ngác bên xác cha mình.
May mà ông chỉ bị ngất đi chứ không chết. Khi người làng hay tin đến cứu
thì bọn cướp đã cao chạy xa bay, giờ đây cha con ông chỉ còn cái xác
nhà không và mảnh vườn trơ trụi. Ông ôm lấy con mà an ủi:
- Cu Phúc đừng khóc nữa. Bố còn sống đây là được rồi. Thế nào bố cũng có cách gầy dựng lại, cho con ăn học thành người…
Tuy mắt bị mờ, không còn nhìn thấy rõ, nhưng ông vẫn không chịu thua số phận, cố gắng hy sinh tất cả vì con.
Thấy con đói, ông lùng sục khắp nơi để lặt từng mớ rau, dò dẫm đào từng
củ khoai, củ chuối, lặn lội mò cua bắt ốc để nuôi con qua ngày đoạn
tháng.
Trời cũng không phụ lòng nên cha con ông vẫn sống sót được, thoát qua khỏi mùa đói khắc nghiệt năm ấy.
Ông làm lại từ đầu để gầy dựng cơ nghiệp và lo cho con ăn học, dù có
phải làm thuê làm mướn, cực khổ trăm bề, ông cũng không từ nan bất cứ
việc gì, miễn sao có cái ăn cho thằng Phúc và gởi nó theo học với thầy
đồ trong làng, vui cùng chúng bạn cùng tuổi.
Năm tháng qua đi, Phúc mỗi ngày một khôn lớn và người cha mỗi ngày một
già đi, ông vẫn âm thầm lo cho con ăn học mà không quản khó nhọc và sức
lực hao mòn.
Ngày con trai lên kinh ứng thí là ngày người cha mừng đến rơi nước mắt, vì ước vọng của ông bao lâu nay đã thành hiện thực.
Con đi rồi, ông lần ra thắp hương nơi mộ vợ mà rằng:
- Xin mình chứng giám cho lòng thành của tôi, có thương con thì cầu xin
cho nó được đỗ đạt, làm quan vinh hiển để đổi đời cho nó, còn tôi thì
phận già ra sao cũng được. Trước sau sống đời chung thủy với mình, vui
vầy sớm hôm với con với cháu.
Quả nhiên, người con trai đỗ á khoa kỳ thi năm ấy và được cử làm quan
tri huyện trong vùng. Người cha nghe tin mừng không kể xiết, thế là tâm
nguyện đã thành, ông nghĩ vợ mình chắc cũng đang mỉm cười nơi suối vàng
khi biết con trai đã công thành danh toại.
Quan tri huyện Phúc nhậm chức được hai năm thì lấy vợ, nàng là con gái
của một phú ông trong vùng, do đó mà cuộc sống cũng khá giả và hạnh
phúc.
Khi con đã thành đạt thì người cha bây giờ mắt đã lòa đi nhiều, bao
nhiêu sức lực đã hao phí khi còn trẻ để làm lụng lo lắng cho con, bây
giờ tuổi già, sức yếu, chẳng làm gì được, chỉ biết sống bám vào con trai
cho trọn vẹn tuổi già.
Quan tri huyện thấy cha đã già yếu, nên lo lắng chăm sóc cho cha rất chu
toàn, khiến người cha lấy làm mãn nguyện và sung sướng trong lòng vì
mình đã có một người con hiếu thảo.
Ngày tháng trôi đi nhanh như vó câu băng qua cửa sổ, vợ chồng quan tri
huyện cũng có một người con trai xinh xắn và dễ thương như vợ chồng ông
ngày trước.
Mặc dù mắt ông đã mờ nên ông không nhìn thấy rõ gương mặt cháu nội,
nhưng ông cũng mường tượng ra được ít nhiều qua tiếng nói, cử chỉ, ông
thấy thằng bé cũng thông minh và sáng dạ như thằng Phúc khi xưa, gia
đình ông lại đầm ấm và tràn ngập tiếng cười.
Ngày đứa cháu nội lên bốn thì sức ông đã yếu lắm, tay chân run lẩy bẩy,
mỗi lần ăn uống thật là khó khăn, mắt mờ nên ông không nhìn thấy, làm
thức ăn đổ trong đổ ngoài, người con dâu phải dọn dẹp mãi nên lâu ngày
thành ra khó chịu.
Đã vậy cứ đôi ba hôm ông lại làm rơi vỡ một cái chén, vì tay ông cứ run
cầm cập nên không giữ chặt được, ông cũng lấy làm ngại lắm nhưng không
biết làm thế nào vì sức mình đã yếu lắm rồi.
Người con dâu thấy vậy tiếc của nên không dám dọn chén kiểu cho ông nữa
vì ông cứ làm rơi hoài, cô nàng thay bằng chén sành để lỡ có đánh rơi
thì cũng ít hao hơn. Quan huyện lúc đầu không đồng ý, nhưng sau cũng
nghe theo lời vợ vì nghĩ rằng mắt cha đã mờ, đâu có phân biệt được chén
kiểu hay chén sành.
Nhưng rồi chồng chén sành cũng ngày một vơi đi vì ông cứ đánh rơi mãi khiến vợ chồng quan huyện không biết xử trí thế nào nữa.
Người vợ bèn nghĩ ra một cách, liền bảo chồng:
- Hay là ta kiếm cái gáo dừa làm chén để dọn cho cha ăn, nếu lỡ rơi
xuống đất thì cũng đâu có bể, khỏi phải mất công thay chén khác.
- Không được, ai lại làm thế với cha bao giờ! Thiên hạ biết được thì còn coi mình ra gì.
- Nhưng cứ mỗi ngày đánh rơi một cái thì làm sao mình kham nổi, vả lại mắt cha mờ nên có thấy gì đâu, chén gì thì cũng vậy thôi.
Người chồng cứ phân vân mãi, nhưng rồi thấy vợ nói cũng phải, nghĩ rằng
chắc cha cũng chẳng nhìn thấy gì nên giấu mọi người trong nhà, lấy cái
gáo dừa đẽo gọt miệng cho phẳng để làm chiếc
chén theo như lời vợ.
Đứa cháu nội ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc chén cơm của ông làm bằng
gáo dừa, có rơi xuống đất cũng không bị bể, nó cảm thấy lạ lắm, nhưng
không lộ ra nét mặt nên bố mẹ nó đâu có biết.
Mỗi lần ăn cơm, cầm chiếc chén trên tay, ông nhận ra ngay đó là chiếc
gáo dừa, nhưng ông không nói ra vì sợ mất mặt con mình, dù sao con trai
mình cũng là tri huyện trong vùng. Tuy vậy, trong lòng ông đau như bị
muối xát, chỉ biết âm thầm nén lại mà thôi.
Hôm nọ, quan tri huyện đi công cán ở xa về, nghe lục đục bên hông nhà
liền cùng vợ bước đến xem, họ thấy con trai mình đang cầm dao đẽo gọt
hai cái gáo dừa khô…
Họ lấy làm lạ hỏi:
- Này, con đang cầm dao nghịch gì thế? Không khéo đứt tay bây giờ!
Đứa bé hồn nhiên bảo:
- Dạ con đang bắt chước cha đẽo gọt hai cái gáo dừa này thành hai cái
chén, phòng khi sau này cha mẹ già yếu dọn cơm cho cha mẹ ăn, lỡ có đánh
rơi cũng không bị bể cha ạ.
Hai vợ chồng nghe vậy thì điếng cả người, không ngờ con trai mình lại nói thế, nhưng không trách nó được, vì nó nói đúng quá.
Lòng hiếu thảo và tình thân chợt dâng đầy, vợ nhìn chồng, rồi chồng nhìn
vợ, cả hai bật khóc, họ hối hận vì những sai lầm của mình đối với người
cha già đáng kính, đã hy sinh trót một đời vì mình.
Thế rồi hai vợ chồng chạy vào trong phòng, quỳ sụp dưới chân người cha mù lòa, vừa khóc vừa nói:
- Cha ơi, xin cha hãy tha lỗi cho chúng con, cha đã hy sinh một đời vì con, thế mà chúng con
đã ngu ngốc khi đối xử với cha như vậy…
- Dù muôn nghìn chén vàng chén bạc cũng không sánh nổi lòng cha đối với
chúng con. Vợ chồng con nguyện khắc dạ ghi tâm và xin cha tha cho tội
bất kính này.
Từ đó vợ chồng người con đối xử với cha rất là hiếu thảo cho tới ngày
ông qua đời. Chuyện đứa bé gọt cái chén gáo dừa kia đã thức tỉnh lòng ta
đối với đấng sinh thành, vì công ơn ấy cao tựa Thái Sơn, biết lấy gì bù
lại cho xứng được?!
Một
người có ba con trai, cả cơ nghiệp có một cái nhà. Người con nào cũng
muốn sau này, khi bố mất, nhà sẽ về mình. Ông bố thì con nào cũng quí,
thành ra rất phân vân, không biết tính sao cho các con vừa lòng. Bán nhà
đi thì có tiền chia cho chúng, nhưng là của hương hỏa nên ông không
muốn bán. Sau ông nghĩ được một kế, bảo các con:
- Chúng mày hãy đi chu du thiên hạ, thử gan thử sức một phen. Mỗi đứa học lấy một nghề. Đứa nào giỏi nhất, bố cho cái nhà.
Ba người con lấy làm thích lắm. Người con cả muốn trở thành thợ đóng
móng ngựa, người thứ hai muốn làm thợ cạo, còn người em út muốn làm thầy
dạy võ. Ba anh em hẹn nhau ngay về, rồi chia tay ra đi.
Cả ba người đều gặp được thầy giỏi truyền cho biết hết bí quyết nhà
nghề. Người đóng móng ngựa được làm việc cho nhà vua và nghĩ bụng: "Phen
này, chắc nhà không thoát khỏi tay mình". Người thợ cạo được sửa tóc
cho những nhà quyền quí nên chắc mẩm là được nhà. Anh học võ bị đấm
nhiều miếng nhưng vẫn cắn răng chịu, nghĩ bụng: "Nếu sợ bị đấm thì bao
giờ được nhà?".
Đến hẹn, ba anh em trở về nhà. Nhưng chẳng ai biết làm thế nào để thi
thố tài nghệ của mình, bèn ngồi bàn với nhau. Đương lúc ấy chợt có một
chú thỏ băng qua cánh đồng. Anh thợ cạo reo lên: "May quá, thật là vừa
đúng dịp". Anh liền cầm đĩa xà phòng, đánh
bọt, đợi thỏ ta đến gần, anh vừa chạy theo vừa quét xà phòng, cạo râu
thỏ mà không hề làm thỏ xầy da chút nào. Người bố khen: "Khá lắm! Nếu
hai thằng kia không làm được trò gì hay hơn thế thì cho mày cái nhà".
Một lát sau có một cỗ xe ngựa chạy qua như bay. Anh đóng móng ngựa nói:
"Bố xem tài con nhé!". Anh liền chạy đuổi theo cỗ xe, tháo bốn móng sắt
của một con ngựa và thay luôn bốn móng mới trong khi ngựa vẫn phi đều.
Người bố lại khen: "Mày giỏi lắm! Mày chẳng kém gì em mày. Không biết
cho đứa nào cái nhà đây!".
Lúc bấy giờ người con út mới nói:
- Thưa bố, bây giờ đến lượt con, bố cho con thử tài.
Vừa lúc ấy trời bắt đầu mưa. Anh ta rút ngay gươm múa kín trên đầu,
người không dính một giọt nước nào. Trời mưa ngày càng to, anh ta múa
càng hăng, áo quần vẫn khô như đứng nơi kín đáo. Người bố ngạc nhiên quá
reo lên:
- Con thật là tài nhất! Thôi con được cái nhà rồi.
Hai anh cũng phục người em út lắm và đồng ý với cha. Ba anh em rất mực
thương nhau nên ở cùng một nhà, mỗi người làm nghề của mình. Họ tài khéo
nên kiếm được nhiều tiền. Họ sống sung sướng như vậy mãi cho đến lúc
tuổi già, một người ốm chết, hai người kia buồn rầu cũng chết theo. Cả
ba anh em vừa khéo vừa giỏi, lại vừa quí mến lẫn nhau, đều được chôn
chung một mộ.
Ngày
xưa, có một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một
lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi. Cậu la cà khắp nơi, mẹ cậu ở nhà
không biết cậu ở đâu nên buồn lắm. Ngày ngày mẹ ngồi trên bậc cửa ngóng
cậu về. Một thời gian trôi qua mà cậu vẫn không về. Ví quá đau buồn và
kiệt sức, mẹ cậu gục xuống. Không biết cậu đã đi bao lâu.
Một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn hơn đánh, cậu mới nhớ đến mẹ.
-“Phải rồi, khi mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, khi mình bị đứa khác bắt nạt, mẹ vẫn bênh mình, về với mẹ thôi”.
Cậu liền tìm đường về nhà. Ở nhà, cảnh vật vẫn như xưa, nhưng không thấy mẹ đâu. Cậu khản tiếng gọi mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đi- đâu rồi, con đói quá ! – Cậu bé gục xuống, rồi ôm một cây xanh trong vườn mà khóc.
Kỳ lạ thay, cây xanh bỗng run rẩy. Từ các cành lá, những đài hoa bé tí
trổ ra, nở trắng như mây. Hoa tàn, quả xuất hiện, lớn nhanh, da căng
mịn, xanh óng ánh. Cây nghiêng cành, một quả to rơi vào tay cậu bé.
Cậu bé cắn một miếng thật to. Chát quá
Quả thứ hai rơi xuống. Cậu lột vỏ, cắn vào hạt quả. Cứng quá.
Quả thứ ba rơi xuống. Cậu khẽ bóp quanh quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi
khẽ nứt ra một kẽ nhỏ. Một dòng sữa trắng sóng sánh trào ra, ngọt thơm
như sữa mẹ.
Cậu bé ghé môi hứng lấy dòng sữa ngọt ngào, thơm ngon như sữa mẹ.
Cây rung rinh cành lá, thì thào :
“Ăn trái ba lần mới biết trái ngon. Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ”.
Cậu oà lên khóc. Mẹ đã không còn nữa. Cậu nhìn lên tán lá, lá một mặt
xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu ôm lấy thân cây
mà khóc, thân cây xù xì, thô ráp như đôi bàn tay làm lụng của mẹ. Nước
mắt cậu rơi xuống gốc cây, Cây xòa cành ôm cậu, rung rinh cành lá như
tay mẹ âu yếm vỗ về.
Cậu kể cho mọi người nghe chuyện về người mẹ và nỗi ân hận của mình…
Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu, ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa.
Nàng: - Anh rút nó ra đi em xem nào? Chàng: - Phải nhẹ nhàng em à! Để anh lựa đã, rồi đó. Nàng: - Hứ! Bộ em không biết “rồi” hay sao mà phải nói. Mà nó ướt nhẹp à. Làm sao anh? Chàng: - Em... thổi cho nó khô. Nàng: - Không, anh lấy giẻ lau đi, ai lại bảo em thổi? Kỳ quá! Chàng: - Hì, anh đùa thôi mà. Nàng: - Bây giờ anh nhét vô đi, nhẹ nhàng thôi nhé! Chàng: - Đây... từ từ... vào... rồi... Nàng: - Hi hi... Anh giỏi quá! Bây giờ thì anh đạp đi. Đạp mạnh nhé, mọi lần anh đạp yếu xìu à! Chàng: - Được, hôm nay là “va lung tung”, ngày đặc biệt nên anh sẽ đạp mạnh. Chàng lấy hết sức đạp, đạp một lúc mồ hôi chàng đã túa ra đầy lưng. Nàng vuốt lưng chàng: - Hay nghỉ một lúc đi anh. - Không! Anh còn sức mà. Chàng lại đạp, đạp, đạp... Và cuối cùng thì cái xe máy cũng nổ ầm ầm. Chàng vui vẻ nhìn nàng: - Anh làm là được mà! Mai anh phải mua cái bugi mới cho chắc ăn, đạp hoài oải quá!